Nội dung cải cách Lục Bộ thời Vua Minh Mạng - Nhà Nguyễn.
YEUSUVIET - Lục bộ là 1 thiết chế quyền lực được phỏng theo mô hình bộ máy nhà nước thời Đường, đã được hoàn thiện dưới thời Lê Thánh Tông và được Gia Long kế tục. Tuy nhiên đến Minh Mệnh thì chức năng, nhiệm vụ của Lục bộ có được quy định lại chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn.
Bài liên quan
Cụ thể:
Bộ Lại: Giữ chức việc tuyển bổ, thuyên chuyển quan văn, phong tước, tập ấm, phong tặng, giữ phép khảo sát niên khóa.
Bộ Hộ: Cân bằng giá trong việc phát ra, thu vào để điều hòa nguồn của cải nhà nước. Phụ trách kho tàng, lưu thông, đinh điền, thuế khóa, tiền tệ, thóc gạo, hộ khẩu.
Bộ Lễ: Phụ trách lễ nghi, triều hội, khoa cử, ngoại giao.
Bộ Binh: Chuyên coi việc bổ nhiệm, tuyển chọn các chức võ quan, khảo duyệt khí giới, lương thực để giúp việc chính trị trong nước. Tuyển lính, hành quân, đồn ải, xét công trạng, tội lỗi quân nhân, lập sổ tướng sĩ.
Bộ Hình: Thảo luận nguyên lí pháp luật, xét xử tội nặng (tử tội). Phúc thẩm các nghi án, xếp đặt lao ngục, chế độ tù phạm.
Bộ Công: Côi giữ thợ thuyền, xây dựng thành trì, lăng tẩm, đồn lũy, cầu đường, đóng tàu thuyền, sửa chữa cung điện, nhà cửa, kho tàng. So với Lý, Trần, Lê nhiệm vụ Lục Bộ triều Nguyễn được quy định một cách chi tiết, cụ thể hơn.
So sánh với các triều đại trước thì Lục bộ thời Minh Mệnh có tổ chức chặt chẽ, quy củ hơn. Bao gồm bộ phận chuyên chức năng văn phòng như Ấn ty và trục xứ chuyên phụ trách ấn triện, tiếp nhận chương, sớ, công văn; kiểm soát hoạt động toàn bộ. Và các ty chuyên môn trực thuộc (từ 3 đến 5 ty). Tuy tiếp thu nhiều cách thức tổ chức của triều Lê và Triều Minh Trung Quốc nhưng không phải Minh Mệnh vẫn có những cải cách sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Tiêu biểu như Bộ Lễ triều Minh chỉ có 4 ty, triều Lê có 2 ty nhưng Minh Mệnh lại đặt lại thành 5 ty, tách hẳn 1 cơ quan chuyên trách việc xét công, phong thưởng tước thần vì tín ngưỡng của người dân….
Nếu dưới thời Lê Thánh Tông, Lục bộ được đặt trực tiếp dưới sự quản lí của nhà vua thì sau cải cách của Minh Mệnh, giữa Lục bộ và Vua hình thành một cấp trung gian đó là Nội các (trên cơ sở của Tam nội viện) để tổng hợp các tấu sớ rồi mới gửi lên vua. Bên cạnh đó, Minh Mệnh còn hợp nhất Lục khoa với Giám sát ngự sự thành Đô sát viện, đặt ra chức quan Đô ngự sử ngang hàng với Thượng thư để nâng cao khả năng giám sát, kiềm chế Lục bộ của Lục khoa, bởi lẽ chức quan Đô cấp sự trung trước đây mới chỉ đạt đến Chánh tòng thất phẩm. Xét về thẩm quyền thì Lục bộ không chỉ là cơ quan thực hành mà còn là cơ quan tư vấn dưới hình thức các phiếu nghĩ để trình lên cho Hoàng đế xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
Các quan chức cũng như lại viên đều phải biết công việc của bộ. Công vụ được đưa ra bàn bạc, thảo luận, năm chức danh lãnh đạo bộ có quyền luận bàn ngang nhau, không có cá nhân nào được toàn quyền quyết định công việc. Bộ không áp dụng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, ý kiến thiểu số vẫn được quyền bảo lưu, cho làm tờ riêng tấu trình lên Hoàng đế quyết định. Nói chung phương thức vận hành có tính chất giản dị, nhanh chóng, mối quan hệ trong Lục bộ chặt chẽ thống nhất, mọi công việc đều được đưa ra thảo luận, ý kiến đa số và thiểu số đều được tôn trọng.
Để xác định rõ trách nhiệm của quan lại các bộ và tránh sai lầm khi dự thảo phiếu nghĩ, nhà vua quy định trong Đạo dụ Minh Mệnh năm thứ 12 (1831): các vị đường quan nào đã lập ra phiếu nghĩ phải ghi rõ họ tên của mình ở dưới, các thư lại thì ghi tên họ ở một bên. 3. Quan lại các bộ Dưới thời Gia Long, chức danh, phẩm trật Lục bộ vẫn theo cách gọi như triều Lê – Trịnh là Thượng Thư, Tham tri, Thiêm Sự, Câu Kê, Cai Hợp, Thủ hợp. Ngoài ra, còn một số nhân viên sai phái gọi là Lệnh Sử ty, Bổn Ty. Năm 1821, vua Minh Mạng cho đặt thêm ở các bộ các chức Lang trung, chủ sự và tư vụ.
Năm 1822, nhà vua bãi bỏ các chức Cai hợp và thủ hợp. những nhân viên trước chức này nay cho nhập ngạch thư lại mới đặt. Năm 1826, Minh Mạng đặt thêm chức Thị Lang, bỏ chức Thiêm sự mà lấy Lang trung thay thế. Năm 1827, ông bỏ chức Câu Kê, đặt chức Viên Ngoại Lang. Dưới triều Minh Mạng, chức Thượng Thư các bộ là do nhà vua tự lựa chọn trong hàn ngũ đại thần trong triều hoặc các cơ quan đứng đầu trấn, tỉnh.
Tiếp đến xét về phẩm trật thì chức thượng thư triều Lê từ tòng nhị phẩm nay được nâng lên thành chánh nhị phẩm tức là vị thế của thượng thư cũng được nâng lên 1 bậc. Nhưng chức danh tả, hữu tham tri mới được đặt ra cũng là hàm tòng nhị phẩm, dưới thượng thư nhưng lại trên chức thị lang trước kia thì cũng hẳn là để chống sự chuyên quyền của các quan thượng thư vậy. Quả thật chức vị tham tri là một nét cải cách đặt sắc của Minh Mạng, một chức danh chưa từng có trong lịch sử phong kiến Việt Nam mà cả trong điển chế của Trung Hoa trước đó cũng chưa hề tồn tại. Do quy mô và nhiệm vụ quản lí được mở rộng hơn so với các triều đại trước mà số lượng quan lại của Lục bộ có phần nhỉnh hơn; tuy nhiên do việc thành lập 1 cơ quan mới là Tam pháp ti mà số quan ở Bộ Hình được giảm đi đáng kể chỉ còn 73 (140 trước đó).
Nhìn chung một bộ máy hành chính như vậy, một khi được tổ chức và vận hành nghiêm túc như các chế định đã đặt ra sẽ có hiệu lực: duy trì và đảm bảo được quyền uy tối thượng của nhà vua trong chính thể quan chủ chuyên chế phong kiến. Bảo đảm được sự tập trung thống nhất trong quan lí hành chính của một quốc qia đa dân tộc, đã trải qua nhiều năm tháng chiến tranh. Đặc biệt là tăng cường được tính thống nhất quốc gia trên một lãnh thổ rộng lớn mà trước đây chưa từng có - một yêu cầu vô cùng quan trọng lúc bấy giờ. Cuộc cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng được thực hiện đã củng cố chế độ trung ương tập quyền, tập trung quyền lực vào hoàng đế.
Ngược lại, chế độ trung ương tập quyền được tăng cường có tác dụng thúc đẩy bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn. Cuộc cải cách đã từng bước củng cố chế độ văn quan dần dần hạn chế vai trò võ quan. Bởi vì chế độ coi trọng võ quan ở nền hành chính quốc gia dẫn đến tình trạng biến những vấn đề chính trị mềm dẻo, tự nguyện nhẹ nhàng thành các vấn đề quân sự cứng nhắc áp đặt và nặng nề. Cuộc cải cách được tiến hành từng bước từ trung ương đến địa phương và luôn kế thừa cái cũ tiến hành một cách thận trọng nên có kết quả đã từng bước cùng cố và tăng cường chế độ giám sát toàn bộ nền hành chính quốc gia, làm cho bộ máy hành chính hoạt động hữu hiệu hơn, hạn chế bớt sự tha hóa mà nền hành chính dưới thời quan chủ dễ mắc phải.
Nguyên tắc “ Lục Bộ tương thông” nhằm phối hợp điều hành công vụ hoặc trực ban tại triều, làm cho công việc của triều đình trở thành một chỉnh thể thống nhất và để tạo cho mỗi bộ giải quyết vụ việc được nhanh gọn, có hiệu quả, ít tốn nhân lực trong sự tương tác giữa các ngành, các cấp. Tuy nhiên, hiệu lực của cải cách đáng lẽ ra phải làm cho quốc thái dân an nhưng ở thực tế lại chưa đạt được ý đồ như vua Ming Mạng mong muốn, đó là do những hạn chế mà Minh Mạng không thể vượt qua.
Thứ nhất là do không đổi mới được tư duy, đáng lẽ ra phải tiếp thu nền minh nho, bãi bỏ tống nho nhưng vua Minh Mạng lại củng cố tống nho để đưa đất nước phát triển thì không hợp với xu thế của thời đại.
Thứ hai là quá chú trọng củng cố vương quyền hơn là cải thiện dân sinh. Thứ ba là tư tưởng củng cố đế nghiệp đã lỗi thời trước yêu cầu phải mở cửa nhìn rộng ra thế giới bên ngoài cả phương Đông và phương Tây. Tóm lại, cải cách Lục Bộ thời Minh Mạng là cuộc cải cách lớn, đã khống chế được sự lộng quyền, lạm quyền của các quan lại. Điều này đã góp phần khẳng định bộ máy nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế không cực đoan, nhưng cực quyền vào thời Minh Mạng.
Cải cách Lục Bộ của triều Minh Mạng vừ kế thừa vừa sáng tạo, vừa uyển chuyển trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu công vụ theo từng giai đoạn của đất nước. tổ chức và hoạt động của Lục Bộ là một trong những nhân tố quan trọng trong việc điều hành đất nước và thế kỉ 19 thể hiện một năng lực quản lý và điều hành bộ máy chính quyền trương ương của nhà vua. Công cuộc cải cách hành chính dười triều Minh Mạng thực sự đã củng cố chế độ trung ương tập quyền, tập trung mọi quyền lực vào Hoàng đế.
Ngược lại, chế độ trung ương tập quyền có tác dụng thúc đẩy bộ máy hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn. Minh Mạng – một hoàng đế mang đậm phong cách của một chính trị gia thời cận đại đã tiến hành công cuộc cải cách hành chính quốc gia Đại Nam và đạt kết quả đáng cho lịch sử ghi nhận. Đây là cuộc cải cách có quy mô rộng lớn sâu sắc và toàn diện mà trước đó chưa từng có trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.
YÊU SỬ VIỆT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét