1. Châu thổ sông Hồng phình to hơn.
Biển rút, hay phù sa bồi đắp đã
phân tách cư dân thành hai thành tố. Người Mường vốn ở vùng đồi ven trung tâm
(Luy Lâu, Long Biên) đang sát biển (xem: Trường ca Đẻ đất đẻ nước) tự dưng bị nội
địa hóa. Giờ đây lãnh thổ cố cựu của họ trở thành vành khuyên (dạng trăng lưỡi
liềm) bao lấy một phần đồng bằng sông Hồng.
Trên vùng phù sa mới bồi đắp một
thế lực mới vừa đi cư đến. Thế lực mà rất nhanh thôi sẽ chiếm đỉnh cao trên vũ
đài chính trị Việt Nam.
Châu thổ phình to khiến Việt lớn
hơn cả về lãnh thổ, lẫn tham vọng. Đất canh tác giờ đây đã rộng hơn nhưng quá
trình khai hoang cũng đòi hỏi rất nhiều nhân lực. Tù binh hoàn toàn có thể khoả
lấp.
2. Các dòng tộc vụt sáng như sao băng
Họ Khúc ba đời làm chủ Giao Châu.
Nhưng sau thất bại của Khúc Thừa Mỹ (Khúc Hậu Chủ) năm 930, dòng họ này biến mất
hoàn toàn. Tuyệt nhiên không còn thấy dấu tích của họ trên vũ đài chính trị Việt
Nam đương thời.
Họ Ngô, Họ Đinh đến họ Lê cũng toả
sáng ngắn ngủi rồi tắt lịm.
Giữa các cuộc đổi thay, họ Dương
như sợi dây kết nối những luân chuyển triều đại. Ba nhân vật là Dương Đình Nghệ,
Dương Tam Kha và Dương Vân Nga đã đi suốt sáu bẩy mươi khốc liệt nhất. Từ vị thế
là Vua (Đại thủ lĩnh) họ chuyển hóa dần sang vai trò là sự kết nối luân chuyển
từ Ngô sang Đinh, từ Đinh sang Lê.
3. Chế độ bầu cử Đại thủ lĩnh
Đại Việt sử ký toàn thư chép những lần thay triều
đổi chế trong gần một thế kỷ theo kiểu Tàu. Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Lê không
khác mấy Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Lê Hoàn đăng cơ như binh biến Trần Kiều
(Xem: Tạ Chí Đại Trường: Bài sử mới cho Việt Nam).
Trong khi đó nếu xâu chuỗi các cuộc
thay triều đổi chế trong thời đại này, ta lại thấy hiện lên những cuộc bầu cử
thủ lĩnh trọn đời. Lá phiếu Đại cử tri của các thủ lĩnh quân sự địa phương, tướng
lãnh, tăng lữ mới quyết định ai là Vua.
Đinh Bộ Lĩnh đã kiếm được phiếu bầu
của hai thế lực hùng mạnh là họ Dương và họ Ngô thông qua hôn nhân. Sau cái chết
của Ngô Xương Văn chỉ mất có hai năm ông trở thành Đại thủ lĩnh ở Giao Châu.
Trái với nhận thức đang chi phối
rằng Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân (một nhận thức kiểu Tàu), thì ông đã được
họ bầu làm … Đại thủ lĩnh. Nhiệm kỳ của ông là trọn đời.
4. Cuộc tranh chấp quyền lực giữa thế lực Thanh Hoá và thế lực sông Hồng:
khốc liệt và kỳ vĩ.
Dương Đình Nghệ xác lập được liên
minh với thế lực Đường Lâm (phải chăng là làng Đường nhân?) nhưng ông lại bị Kiều
Công Tiễn – một thủ lĩnh tại địa bàn sông Hồng sát hại. Sau đó liên minh Đường
Lâm Thanh Hoá tiến ra giết Kiều Công Tiễn trong cuộc tấn công chớp nhoáng năm
938.
Nhưng đỉnh cao của sự kỳ vĩ lại đến
từ sau khi Lê Hoàn băng hà (quãng năm 1004). Lý Công Uẩn một đại diện của thế lực
sông Hồng – đại gia tộc họ Lý người gốc Mân (Trung Quốc) [???]. Nhờ vào phiếu ủng hộ
của một số tướng lãnh, tăng lữ đã thoán ngôi Lê Long Đĩnh (1009).
Sau đảo chính, Lý Công Uẩn đã ly
khai Hoa Lư. Ông chạy thẳng một mạch về địa bàn của mình là vùng trung châu mới
được sông Hồng bồi đắp vài trăm năm trước. Tại đây giữa đồng bào, ông mới có thể
yên tâm xác lập vương quyền.
5. Đại Việt hung hăng khủng khiếp
Thế lực Lý với nòng cốt là Mân
Hán chiếm thượng tầng chính trị. Từ Bá Tường một viên tiến sỹ nhà Tống đã gửi
thư cho Nhân tông (Càn Đức) như sau: “Tiên-thế Đại-vương vốn người đất Mân. Tôi
nghe nói công khanh ở Giao-chỉ cũng nhiều người đất Mân”.
Rất nhanh, nhóm Mân Hán này chứng
tỏ sự yêng hùng, vũ dũng của mình. Lý bành trướng thế lực, chuốc bi ai cho láng
giềng, chiến tranh là lẽ sống của họ.
Lý hà hiếp cướp ngựa, đất của Đại
Lý (qua hai trận chiến 1012, 1014), Kimi rồi áp chế Tày – Nùng, xâm lăng
Champa. Thậm chí, họ còn chẳng ngần ngại thử sức đầy lớn lao với Tống (1075 –
1077), theo Tống sử thì, Lý đã giết và bắt đi mười vạn người Tống.
Kiến thức kinh nghiệm về biển
cũng giúp họ xây dựng được hạm đội hùng mạnh. Bứt ra hẳn viễn chinh đường bộ,
năm 1069, hạm đội này vượt biển ngàn dặm từ Thăng Long mà công hạ Vijaya.
Thủy Binh Lục Chiến Đại Việt còn
san bằng, cướp sạch Khâm, Liêm. Đây cũng là lực lượng xương sống trong chiến dịch
vây hạ Ung Châu, chém Trương Thủ Tiết tại Côn Lôn (1075).
6. Lý giàu kinh khủng
Không hoàn toàn có được sự ủng hộ
của các thủ lĩnh quân sự, Lý đã đảo chính Lê. Rất nhanh thôi, Công Uẩn ban thưởng
khắp Nam phụ lão ấu, không sót một ai. Nhà Lý cũng miễn thuế cho “dân” nhiều đợt
mà mỗi đợt cứ ba năm một.
Họ ban thưởng tăng lữ, xây chùa rầm
rộ. Đến nỗi các sử gia nhà Nho đời sau (nhất là Ngô Sĩ Liên) phê phán, ngán ngẩm.
Miễn thuế, ban thưởng như vậy,
nhưng Thăng Long vẫn đủ sức nuôi Hoàng Gia, bộ máy hành chính, xây hoàng thành
và nhất là có được đội quân hùng mạnh nhất khu vực.
Tiền đấy ở đâu ra? Cướp được cung
vàng mái bạc, tiền vàng la liệt đầy sân của nhà Lê liệu có đủ dùng? (Lê Hoàn
xây cung điện có mái bạc, cột dát vàng, lại đem những thứ quý lạ bày chật cả
sân để khoe giàu có với sứ Tống).
Câu trả lời là không chỉ có chiến
tranh kiểu cướp đoạt, nhà Lý đã… đi buôn.
(có lẽ) Với tố chất người Mân,
vương triều này điều hành việc buôn bán rất cừ. Đầy khốc liệt nhưng họ đã đưa
mình thành một trạm chung chuyển trên con đường thương mại biển Đông.
Vương triều Lý đã mở ra: “dòng chảy
kinh tế của Nghệ – Tĩnh không chỉ từ bắc xuống mà còn cả từ phía nam lên, từ
trên núi xuống và từ biển về” và rồi “chủ động thiết lập tuyến buôn bán “xuyên
lục địa” thông qua các cảng vùng Nghệ – Tĩnh lên Nam Lào và vùng đất truyền thống
của Lục Chân Lạp” (Xem thêm: Nguyễn Văn Kim: Các thương cảng vùng Nghệ – Tĩnh
và giao thương khu vực thế kỷ XI – XIV).
Thông qua bang giao với Tống và cả
lân bang, Lý là vương triều mở đầu dòng thương mại triều cống tại Việt Nam. Nơi
mà họ luôn lời sau mỗi lần đi cống Tống! (Xem thêm: Gs Monoki Shiro Đại học
Osaka, Nhật Bản: Đại Việt và Thương Mại ở Biển Đông từ Thế kỷ X – XV).
7. Nam đảo hiện hữu và từng có… Ngai vàng
Lê Hoàn đi bắt cá sấu, Long Đĩnh
thích chọc tiết gia súc để nhà bếp làm đồ ăn. Chưa kể Lê Đế Long Đĩnh còn có mẹ
là người Cham. Và ông ta đi tới tận Cửa Sót (Nam Giới) để dẹp loạn và thị sát
việc đào kênh. Chắc muốn “quay về” mần luôn vua nước cũ?!
Vị vua trẻ này hành xử theo kiểu
một ông Chàm con. Ông tỏ ra ngây thơ chính trị và khinh nhờn những trò ma mị của
Nho gia.
Cham vẫn lại là Cham xâm lăng Việt
theo kiểu rất ngược đời… bị bắt làm tù binh. Ước khoảng 5, tới 6 vạn Chàm bị
nhà Lý ném ra bắc. Họ được lập làng kiểu Chăm, khai hoang và đóng thuế.
Đóng góp của họ là để Việt mạnh
hơn rồi đi đánh Chăm hăng hơn! Thật sự là quá kỳ dị!
Cham cũng …"thôn tính” luôn Thăng
Long khi họ… góp công xây dựng kinh thành mới. Chắc nỗi nhớ Phật Thệ, Vijaya hằn
in trong từng viên gạch, đầu rồng, lá đề, hay hệ thống thoát nước? Họ ảnh hưởng
tới Đại Việt từ tín ngưỡng, lời hát, từ viên gạch đến chùa tháp, Kinh thành. Từ
miếng ăn (lúa Chiêm) đến nước uống (giếng Chăm).
Rồi họ hoá Kinh! Hay là Kinh hoá
họ? Giờ nào ai đâu biết!
Năm 1077, chiến tranh Việt – Tốngchấm dứt. Thời kỳ Đại Việt chinh phạt liên miên không còn, nhưng quốc gia đã tạo
hình thống nhất chỉ còn chờ đời sau bành trướng, thực dân.
Gần một thế kỷ rưỡi (930 – 1077)
đầy những hùng ca. Cả một thời kỳ kì vĩ, vừa khốc liệt vừa lãng mạn, vừa bất
quy tắc vừa thiết lập quy tắc. Và cũng thời kỳ này tạo nên … giá trị Việt Nam.
Tạo Việt Nam đa sắc tộc, đa ngôn ngữ nhưng thống nhất. Tạo nên người Việt Nam vừa
dữ dằn hùng tợn vừa lãng mạn dễ thương.
Nguồn: Nghiên cứu lịch sử - Lịch sử Việt nam
your article is great !
Trả lờiXóaBoshepoker
Poker Online
Judi Uang asli
Bandar Domino
Situs Poker Online
Situs Judi Poker Online