YEUSUVIET.COM - Thư viện ở Việt Nam được
thành lập vào thời nhà Lý, ban đầu là những kho tàng thư Kinh Trần Phúc kinh
tàng (1011), Bát Giác kinh tàng (1021), Đại Hưng tàng (1023), Trùng Hưng tàng
(1036). Thư viện tổng hợp Nhà nước đầu tiên được xây dựng ở Quốc Tử Giám năm
1087, được gọi là “Bí thư các”. Thời Trần có thêm Thiên Trường phủ Kinh Tàng và
Thư viện Lạn Kha, thời Lê có Bồng Lai thư viện, thời Tây Sơn có Sùng Chính thư
viện, thời Nguyễn có Cổ học thư viện, Sử quán thư viện, Tân thư viện v.v…
Bài liên quan
>>> Việt Nam sử lược PDF - Trần Trọng Kim
>>> Lê Chiêu Thống và từ đâu có vết nhơ cõng rắn cắn gà nhà?
>>> Hồ Qúy Ly - Đấng quân vương hay kẻ nghịch thần soán ngôi?
>>> Việt Nam sử lược [PDF] - Trần Trọng Kim
>>> TOP #10 những cuốn sách Lịch sử Việt Nam hay nhất (nhiều thể loại)
>>> Lê Chiêu Thống và từ đâu có vết nhơ cõng rắn cắn gà nhà?
>>> Hồ Qúy Ly - Đấng quân vương hay kẻ nghịch thần soán ngôi?
>>> Việt Nam sử lược [PDF] - Trần Trọng Kim
>>> TOP #10 những cuốn sách Lịch sử Việt Nam hay nhất (nhiều thể loại)
Trải
qua các triều đại, nhiều chức danh đã được đặt ra cho những vị quan trông coi
bí các (thư viện) như: Thủ đại tạng kinh, Giám quốc tử thư khố, Bí thư giám học
sĩ v.v… Những vị quan này với trách nhiệm quản lý các kho sách vở của đất nước
cũng tức là quản lý kho tàng tri thức, kho tài sản tinh thần, văn hóa của dân
tộc đã được lựa chọn kỹ càng. Họ đều là những người học rộng tài cao, đỗ đạt
thành danh hoặc đã từng làm nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Điều đó
cho thấy ngay từ thời xa xưa, ông cha ta đã rất coi trọng công tác thư viện,
luôn giao công tác này cho những người tài giỏi, uyên thâm, có như vậy họ mới
trở thành “những linh hồn của các thư viện” như ngày nay chúng ta vẫn thường
đòi hỏi.
Vậy các vị “quan thư viện” ấy
là những ai? Đi tìm các bậc tiền bối của ngành để biết, để học tập là điều thú
vị, bổ ích song thật đáng tiếc là tài liệu nói về họ quá ít. Hầu như họ chỉ
được nhắc đến tên tuổi khi họ có tác phẩm văn, sử… được nghiên cứu rồi các nhà
nghiên cứu nhắc đến chức danh người giữ thư viện trong phần tiểu sử, tiểu
truyện về tác giả mà thôi. Còn nhiều người khác không được nói đến và họ đã
sống, làm việc, đã cống hiến rồi đi vào quá khứ lịch sử một cách âm thầm không
để lại tên tuổi cho đời sau, đúng như tính chất nghề nghiệp vốn có của người
cán bộ thư viện từ xưa tới nay vậy.
Tìm tòi trong sách vở, tài
liệu, chúng ta có thể thấy một số vị đã từng làm công tác thư viện trong quá
khứ đồng thời họ cũng có tên tuổi trong nhiều lĩnh vực khác. Tiêu biểu như:
1. Lý Tế Xuyên (Thế kỷ 14)
Lý Tế Xuyên là nhà văn hóa
thời Trần. Đời Trần Hiến Tông (1329 - 1341), từ năm Khai Hựu thứ nhất ông giữ
chức Thủ tạng thư chính, tước Trung phẩm phụng ngự, sau được làm An phủ sứ lộ
An Tiêm (Thanh Hóa). Trong những năm làm quan, ông đọc nhiều, đi nhiều nơi,
nhận thấy các thần thờ tại đền miếu rất nhiều mà các bậc thần có công giúp nước
cứu dân lại không được mấy. Ông bèn ghi chép những gì nghe thấy và soạn thành
tập Việt điện u linh nói về sự tích những người có công, danh tiếng của nước ta
trong lịch sử. Việt điện u linh là một sưu tập gồm 26 truyện các vị thần “thông
minh chính trực, công lao hiển hách, ngầm giúp sinh linh” được thờ cúng tại các
đền miếu Việt Nam thời Trần. Trong bài tựa, Lý Tế Xuyên đã đem các truyện sưu
tập được chia thành 2 loại lớn, một là “Sơn xuyên tinh túy” tức là tinh hoa của
sông núi, hai là Nhân vật kiệt linh tức là những con người sống xuất chúng,
chết linh thiêng. Cùng với bài tựa trên, về sau sách Lĩnh nam chích quái do Vũ
Quỳnh (1452 - 1516) biên soạn sưu tập 22 truyện, có phân loại và giới thiệu, hệ
thống hóa các truyện trong bộ sách.
Lý Tế Xuyên cũng như Vũ Quỳnh
đã làm hai bài tựa Việt điện u linh tự và Lĩnh nam chích quái hiệu chính tự,
trong đó đã tiến hành các thao tác có tính chất thư mục học như phân loại, sắp
xếp, miêu thuật, đánh giá các văn bản trong sưu tập, nhằm giúp người đọc nhanh
chóng chiếm lĩnh những thông tin quan trọng của sách. Hai bài tựa trên đây chưa
phải là những thư mục nhưng chúng ta có thể suy ra một điều:
Là người quản lý thư viện, chắc chắn Lý Tế Xuyên đã áp dụng các phương pháp xử lý tài liệu như trên vào trong công việc của mình. Do vậy kho sách của triều đình thời đó có lẽ đã được tổ chức và khai thác một cách khoa học ở một mức độ nào đó.
2. Trần Tôn (Thế kỷ 14)
Vua Trần Dụ Tông đã cho lập
Thư viện Lạn Kha trong điện Bảo Hòa (trên núi Phật tích, Tiên Du, Bắc Ninh),
giao cho danh nho Trần Tôn làm chức Trưởng viện dạy học trò. Năm Quý Hợi (1383)
Trần Nghệ Tông đã tới đây cùng một số bề tôi Nguyễn Mậu Tiên, Phan Nghĩa, Vũ
Hiến Hầu để soạn bộ sách Bảo Hòa điện dư bút gồm 8 quyển.
Cung Bảo Hòa vừa là thư viện
vừa là trường đại học. Theo Đại Việt sử ký tiền biên in triều Tây Sơn thì sau
khi làm xong sách Bảo Hòa điện dư bút, vua triều Trần dùng điện ấy làm nơi đào
tạo nhân tài.
Do vậy ta thấy Trần Tôn vừa
làm công tác giảng dạy vừa quản lý thư viện của triều đình thời đó. Với chức
danh là người thầy của trường đại học, ông đương nhiên phải có trình độ của một
học giả uyên thâm, và là người đỗ đạt cao, xứng đáng là một “danh nho”.
3. Lương Như Hộc (Thế kỷ 15)
Lương Như Hộc (1420 – 1501),
tự Trường Phủ, người làng Hồng Liễu, huyện Trường Tân, sau đổi là làng Thanh
Liễu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Năm Đại Bảo thứ 3 (1442) ông
đậu Nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh tức là Thám hoa. Đời Lê Nhân Tông, năm Kỷ Tỵ Thái
Hòa thứ 7 (1449) ông làm An phủ sứ, được thăng Hàn Lâm trực học sĩ. Khi Lê Nghi
Dân cướp ngôi, sai ông làm Lễ bộ tả thị lang, sau được gia chức Trung thư lệnh
kiêm Bí thư giám học sĩ.
Theo sách Hải Dương phong vật
chí Lương Như Hộc là người đem nghề khắc ván in sách từ Trung Quốc về Việt Nam
dạy nhân dân các làng Hồng Liễu và Liễu Chàng ở Hải Dương. Do đó, các sách sử,
sách Ngũ Kinh, Tứ truyện được đem khắc in lại ở Việt Nam và được phổ biến rộng
rãi. Để kỷ niệm việc đó, các làng kể trên có thờ ông làm Thành hoàng và Tổ sư
nghề khắc ván in sách.
Lương Như Hộc còn là tác giả
của các tác phẩm như Tinh tuyển chư gia luật thi: tuyển chọn 362 bài thơ của 11
tác giả từ đời Trần đến đời Lê. Cổ kim chế từ tập, Hồng Châu quốc ngữ thi tập,
Tiêu tương bát cảnh thi...
4. Vũ Vĩnh Trinh (Thế kỷ 15)
Vũ Vĩnh Trinh, không biết năm
sinh năm mất, quê ở Vụ Bản (Nam Định).
Đại Việt sử ký toàn thư có
nói đến Vũ Vĩnh Trinh trong phần ghi chép về khoa cử năm 1466 đời Lê Thánh
Tông: “Thi hội các cử nhân trong nước, lấy đỗ 29 người. Tháng 3, ngày 12, vua
ngự ra cửa Kính Thiên, thân ra đầu bài văn sách hỏi về các đế vương trị thiên
hạ. Sai Sùng Tiến nhập nội tả đô đốc kiêm thái tử Thiếu bảo Lê Cảnh Huy và
quyền chính sự viện thượng thư kiêm Cẩn Đức điện đại học sĩ thái tử tân khách
Nguyễn Như Đổ làm đề điệu (tức chánh chủ khảo). Hàn Lâm viên đại học sĩ quyền
Ngự sử đài đô ngự sở đại phu Trần Bàn làm giám thí (tức phó chủ khảo) Hàn Lâm
viện thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn Lâm Viện thừa chỉ Hộ bộ hữu thị lang kiêm Cẩn
Đức đại học sĩ nhập thị Kinh diên kiêm tả xuân phường thái tử tả dụ đức Nguyễn
Cư Đạo, Hàn Lâm học sĩ hành Hải Tây đạo tuyên chính sứ ty tham tri kiêm Bí thư
giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm độc quyển. Lấy bọn Dương Như Châu 8 người đỗ tiến
sĩ, bọn Nguyễn Nhân Thiếp 19 người đỗ đồng tiến sĩ - ba năm một khoa thi bắt
đầu từ đây. Ngày 26 xướng danh bọn tiến sĩ Dương Như Châu, ban cho ân mệnh: Bộ
Lễ đem bảng vàng treo ở ngoài cửa Đông Hoa”.
Sử liệu trên cho thấy học vị
và chức vị của Vũ Vĩnh Trinh. Ông cũng là một Bí thư giám học sĩ. Trong khoa
thi đầu đời Lê Thánh Tông, ông tham gia trong Ban giám khảo kỳ thi Hội. Mặt
khác Vũ Vĩnh Trinh còn là một nhà thơ - Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú có chép một bài thơ của ông, đó là bài thơ vịnh đất Trâu Sơn - phủ
Từ Sơn - Bắc Ninh.
5. Nguyễn Thiếp (Thế kỷ 18)
Nguyễn Thiếp (1723-1804), tự
là Khải Chuyên, hiệu Lạp Phong cư sĩ, Bùi Phong cư sĩ, La Sơn tiên sinh (tên
hiệu này do vua Quang Trung chính thức tặng cho Nguyễn Thiếp), Lục Niên tiên
sinh… Năm 21 tuổi ông đậu Hương cống khoa Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4
(1743), được bổ chức Huấn đạo rồi Tri huyện Thanh Chương (Nghệ An), sau từ quan
về ở ẩn ở trại Bùi Phong dưới chân núi Thiên Nhẫn. Năm 1788, Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu Quang Trung đem quân ra Bắc đánh quân Thanh,
khi qua Nghệ An có cho mời ông đến hỏi việc nước, sau lại cho người đưa thư và
lễ vật mời ông ra làm quan, ông không chịu nhận. Đến lần hội kiến thứ tư với
Quang Trung (1791), Nguyễn Thiếp mới chịu nhận lời giúp việc cho triều Tây Sơn:
Vua Quang Trung xuống chiếu giao cho Nguyễn Thiếp giữ chức Viện trưởng Sùng
Chính thư viện (lập ngay nơi cụ ở ẩn). Sùng Chính thư viện cũng được giao việc
dịch Nôm chua nghĩa và giải thích một số sách để làm tài liệu giáo khoa, hiện
nay còn giữ được bộ Thi kinh giải âm in năm Quang Trung thứ 5 (1792) là một
trong những bộ sách do Sùng Chính thư viện biên soạn. Sau khi vua Quang Trung
mất (9-1792), ông cáo quan trở lại cuộc đời ẩn dật.
Tác phẩm của Nguyễn Thiếp có:
La Sơn tiên sinh thi tập (cùng tên Hạnh Am thi cảo) gồm hơn 100 bài thơ. Phan
Huy Chú nhận xét: “Thơ ông tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thật là lời
nói của người có đức, các tao nhân ngâm khách không thể sánh được”; Hạnh Am di
văn: gồm một số bài văn của Nguyễn Thiếp phúc đáp, cáo từ, trần tình, tạ ơn…
gửi vua Quang Trung; Thi kinh giải âm (chủ biên)...
6. Lê Quý Đôn (Thế kỷ 18)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là nhà
bác học lớn của Việt Nam thế kỷ 18. Ông tên tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường,
người làng Diên Hà, trấn Sơn Nam hạ (nay là xã Phú Hiếu, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình), là con tiến sĩ Lê Phú Thứ, một danh thần của triều Lê - Trịnh. Lê
Quý Đôn nổi tiếng thông minh, mẫn tiệp từ thuở nhỏ, lại rất chăm học, 17 tuổi
đỗ Giải nguyên, 26 tuổi đỗ Hội nguyên rồi vào thi Đình (1752) cũng đỗ đầu Bảng
nhãn (bấy giờ không lấy Trạng Nguyên). Sau khi thi đỗ đại khoa, ông làm thị thư
ở viện Hàn Lâm, rồi làm việc ở Viện Quốc Sử, có vài lần làm công việc thanh tra
ở trấn Sơn Nam - Năm 1757 làm Thị giảng ở Viện Hàn Lâm. Năm 1760, ông làm Phó
sứ sang Trung Quốc, khi về nước được thăng chức thừa chỉ, tước Dĩnh Thành bá,
sung chức Học sĩ ở Bí thư các. Năm 1764, làm đốc đồng Kinh Bắc, rồi chuyển làm
Tham chính Hải Dương. Sau đó ông xin nghỉ về quê viết sách. Năm 1767, chúa
Trịnh Sâm cầm quyền, ông lại được triệu ra làm quan, tham gia biên soạn quốc sử
và làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám. Năm 1769 ông làm Tán lý quân vụ, rồi thăng
chức Hữu thị lang Bộ Công. Năm 1773, làm Bồi tụng phủ chúa; năm 1776, làm Hiệp
trấn Thuận Hóa (Bình Trị Thiên); sau đó trở về Thăng Long làm Tham tụng, tước
Nghĩa Phái hầu Lê Quý Đôn là nhà bác học uyên thâm bậc nhất của Việt Nam trong
thế kỷ 18. Các trước tác của ông về sử học có Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp
lục, Kiến văn tiểu lục, Bắc sử thông lục; Về triết học có Thư kinh diễn nghĩa,
Dịch kinh phu thuyết, Xuân thu lược luận, Quần thư khảo biện. Về sáng tác văn
học và sưu tập văn chương có Hoàng Việt văn hải, Quế đường thi văn tập. Về khoa
học có Vân đài loại ngữ. Qua các ghi chép khác thì ông còn là nhà địa lý học,
có hiểu biết nhiều về nông học, dân tộc học, ngôn ngữ học…
Học trò của ông là
Tiến sĩ Bùi Huy Bích nói: “...nước ta trong vài trăm năm lại đây mới có một
người như thầy”. Phan Huy Chú nhận xét: “Bình sinh rất chăm chỉ làm sách. Bàn
về kinh sử thì sâu sắc rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở
trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời”. Lê Quý Đôn không chỉ dựa vào
thông minh trí tuệ mà còn là tấm gương lao động cần cù, khẩn trương và làm việc
thường xuyên liên tục. Bộ Vân đài loại ngữ (bộ sách khoa thư của Việt Nam),
hoàn thành trong 3 năm, trích dẫn đến 557 tập sách, trong đó có cả sách châu Âu
dịch sang Hán văn. Khi vào Thuận Hóa làm thiệp trấn, trong hơn 6 tháng vừa lo
xây dựng chính quyền ông vừa sưu tập tư liệu biên soạn bộ Phủ biên tạp lục làm
cơ sở cho nhà Nguyễn viết lịch sử Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Số lượng tác
phẩm của ông lên tới 40 bộ, nay còn lại không quá một nửa.
Lê Quý Đôn có đóng góp lớn
đối với ngành thư viện, thư mục Việt Nam. Có thể nói ông là người khai sáng,
đặt nền móng cho lý luận và phương pháp thư viện, thư mục học Việt Nam thông
qua việc biên soạn thư mục Nghệ văn chí một chương trong bộ Đại Việt thông sử
(cũng có tên là Lê Triều thông sử). Trong thiên thư mục này, Lê Quý Đôn đã sưu
tầm, kê cứu lai lịch, tình trạng sách của Việt Nam từ đời Lý (thế kỷ 11) đến
cuối đời Lê (thế kỷ 18).
Trong Nghệ văn chí Lê Quý Đôn
phân chia các sách (gồm 115 bộ sách hán nôm) vào 4 loại:
1. Hiến chương loại: 16 tên
sách
2. Thi văn loại: 66 tên sách
3. Truyện ký loại: 19 tên
sách
4. Phương kỹ loại: 14 tên
sách
Về mỗi bộ sách, tác giả ghi
rõ: Tên sách, số quyển, tên người biên soạn (hay sáng tác), sơ lược nội dung;
những điều ghi chú về tình trạng sách mất hay còn và trong một số trường hợp
ông có nêu những ý kiến của mình phê bình nhận xét về bộ sách ấy (thường là vắn
tắt).
Công trình trên của Lê Quý Đôn thể hiện tính khoa học trong phương pháp thư viện học như: xác định các yếu
tố mô tả sách, xây dựng một khung phân loại sách tương đối hợp lý trong tình
hình sách ở Việt Nam đương thời.
Về lĩnh vực thư mục học, đây
là bản thư mục tổng hợp đầu tiên của Việt Nam với phương pháp biên soạn khá
hoàn chỉnh về sưu tầm hệ thống hóa, mô tả, sắp xếp, phân tích, dẫn giải… tài
liệu; đáng để cho người đời sau học tập và phát huy. Bản thư mục này còn mang ý
nghĩa tính dân tộc, độc lập, sáng tạo. Tác giả không chịu rập khuôn theo các
loại mục trong kinh tịch chí của Trung Quốc như Kinh, sử, tử, tập… mà chia sách
của mình theo các môn loại riêng, thích hợp với hoàn cảnh thực tế.
Chính vì vậy, Lê Quý Đôn là
nhà bác học đồng thời cũng là nhà thư viện học, thư mục học Việt Nam thế kỷ 18.
7. Phan Huy Chú (thế kỷ 19)
Phan Huy Chú (1782-1840) nhà
bác học, nhà thơ tự là Lâm Khanh, hiệu là Mai Phong. Ông là con của Phan Huy
Ích, sinh ra và lớn lên ở xã Thụy Khuê (Làng Thầy), phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây,
từ nhỏ đã học giỏi và chăm đọc sách. Nhưng hai lần thi hương ông chỉ đỗ tú tài,
đương thời vẫn gọi ông là Tú Thầy. Năm 1821, vua Minh Mệnh biết tiếng, triệu
ông vào Kinh đô Huế làm biên tu ở viện Hàn lâm rồi làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên,
sau thăng lên làm Hiệp trấn Quảng Nam. Được ít lâu ông bị giáng chức triệu về
Huế làm thị độc viện Hàn lâm. Cũng thời Minh Mệnh ông được cử đi sứ nhà Thanh
hai lần với cương vị là Phó sứ. Cuối năm 1832, ông lại được cử đi công tác ở
Inđônêxia, rồi chuyển về làm công việc ở Bộ Công. Được một thời gian ông chán
cảnh quan trường lấy cớ bị đau chân xin về quê dạy học và viết sách.
Cống hiến chủ yếu và rất to
lớn của Phan Huy Chú là một công trình biên khảo lớn, một bộ bách khoa thư
đương thời: Bộ Lịch triều hiến chương loại chí gồm 49 quyển được ông biên soạn
liên tục từ năm 1809 đến năm 1819. Kết quả những năm miệt mài nghiên cứu với
tấm lòng yêu đất nước và văn hóa dân tộc, với mong muốn tổng kết lịch sử giúp
đời, bộ Lịch triều hiến chương loại chí được phân thành 10 bộ môn là: Địa dư
chí, Nhân vật chí, Quan chức chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí,
Binh chế chí, Văn tịch chí và Bang giao chí.
Lịch triều hiến chương loại
chí có một dung lượng lớn, là một kho tài liệu sử học về nhiều mặt rất phong
phú, chính xác và được phân loại, hệ thống, là công trình nghiên cứu tiêu biểu
đánh dấu thành tựu khoa học của nước ta đầu thế kỷ 19. Bộ sách này cùng với Vân
đài loại ngữ của Lê Quý Đôn được coi là bộ Bách khoa toàn thư của Việt Nam.
Ngoài giá trị khoa học, bộ sách còn có giá trị tư tưởng cao trong việc mô tả
địa lý, nhân vật lịch sử, có lập trường dân tộc, tư tưởng nhân dân sâu sắc,
nhận xét thơ văn tinh tế. Ngoài ra, Phan Huy Chú còn có tác phẩm địa lý học là
Hoàng Việt địa dư chí và hai tập văn thơ là Hoa thiều ngâm lục và Dương trình
ký kiến (hay Hải trình chí lược) làm trong thời gian đi sứ Trung Quốc và
Inđônêxia.
Về lĩnh vực thư viện, thư mục
học, Phan Huy Chú kế tiếp sự nghiệp của Lê Quý Đôn, soạn thiên Văn tịch chí
trong Lịch triều hiến chương loại chí. Trong thiên này, tác giả cũng chia sách
làm 4 loại, nhưng hơi khác họ Lê và số lượng tên sách nhiều hơn.
1. Hiến chương loại: 28 bộ
sách
2. Kinh sử loại: 24 bộ sách
3. Thi văn loại: 108 bộ sách
4. Truyện ký loại: 54 bộ sách
Phụ đề: Phương kỹ loại trong
phần Truyện ký loại
(Tất cả gồm có 214 tên bộ
sách, so với số sách của Nghệ văn chí thì có thêm 99 bộ).
Ngoài bài tựa trên đầu thiên
sách như Lê Quý Đôn đã làm, trên mỗi loại, tác giả có thêm một bài nói qua về
nội dung loại ấy. Sau mỗi tên sách, là đoạn nói về nội dung sách, tác giả
thường chép thêm hẳn bài tựa chính của sách ấy, hay trích một số đoạn có giá
trị nhất là mấy câu thơ hay để chứng minh ý kiến phê phán của mình. Các yếu tố
mô tả sách cũng được đầy đủ hơn.
Hai thiên thư mục của Lê Quý
Đôn và Phan Huy Chú trở thành những công cụ hữu hiệu cho việc tra cứu kho sách
Hán Nôm đương thời cũng như ngày nay.
8. Lê Nguyên Trung (Thế kỷ
19)
Xuất thân trong một gia đình
nho học, Lê Nguyên Trung (hiệu là Chỉ Trai) đọc sách nhiều và đã tổ chức thư
viện riêng của gia đình, để sử dụng cho các chi của dòng họ. Ông đã biên soạn
một bản mục lục sách ghi trong bài Lê thị tích thư ký, làm năm Thiệu Trị - Bính
Ngọ, 1846. Trong bài ký này, Lê Nguyên Trung nói về việc tổ chức thư viện riêng
của gia đình cũng như quan điểm coi trọng sách rất đặc biệt của ông. Bài ký có
đoạn viết: “Tôi đi làm quan đã lâu, tiêu pha tằn tiện, hễ còn tiền tôi đem mua
sách để dành. Hễ mua được thì bộ nào đóng thành từng bộ ấy, và tự yên ủi: Ấy là
ruộng báu nhà ta”.
“Tôi tuy chưa đọc hết được các sách ấy, nhưng tôi giữ gìn
thật kính cẩn. Tôi lại muốn để cho con cháu đời đời kính giữ bèn đóng giá xếp
lên. Sau này sẽ đem đặt ở nhà thờ cho có nơi chốn để con cháu được cùng kính
giữ. Tôi mới làm cái biển, chia thành từng loại ghi rõ thành 7 mục: 1- Kinh, 2-
Thư, 3- Sử, 4- Tử, 5- Tập, 6- Cử Nghệ, 7- Tạp trứ. Sau này có sách thêm thì
theo số hiệu tiếp tục ghi vào đấy. Cần phải lau quét luôn để cho sách khỏi nát.
Bên cạnh tủ sách, tôi để quyển sổ ghi đủ 4 chi họ, ai cũng có thể mượn về đọc,
ai mượn thì ghi rõ vào cuối bảng, khi trả lại, xóa tên đi. Việc này không thể
sao lãng, để khỏi mất sách”
Bài ký trên cho thấy Chỉ Trai
Lê Nguyên Trung đã tổ chức thư viện gia đình khá chặt chẽ, khoa học và đưa ra
một khung phân loại sách mới (7 loại), xếp kho sách theo môn loại, cho mượn
sách có nguyên tắc… là những phương pháp công tác thư viện cần thiết và hợp lý
ở thời đó.
9. Lê Trọng Hàm (Cuối thế kỷ
19 - Đầu thế kỷ 20)
Lê Trọng Hàm (1872-1931) tự
Quốc Ninh, hiệu Đồng Giang, Nam Á dư phu, Nam Sử thị, là người làng Hội Khê
ngoại, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Ông là một nhà nho học, cần cù về việc
sưu tầm tài liệu và biên soạn sách, nhất là sách sử Việt Nam. Khoảng trước năm
1922, ông gây được một nhóm các cụ đồ nho, lập ra hội Nam Việt Đồng thiên hội
và làm hội chủ cùng biên soạn sách Minh đô sử, một bộ sách bằng chữ Hán, có
chép cả thơ văn Nôm, sách gồm 100 quyển. Việc biên soạn sách này mất khá nhiều
công phu, tốn nhiều thời gian (trên dưới 10 năm), nhưng sách chưa được kiểm
hiệu một cách chính xác nên hạn chế trong việc sử dụng.
Tác phẩm của ông có: Minh đô
sử, Hán văn Nam kỵ khảo, Mạc Kính thao truyện dịch thuật, Thủy tử ca (Bài ca
con nước, tức là giờ con nước lên xuống).
Về lĩnh vực thư viện, Lê
Trọng Hàm và nhóm Đồng Thiên Hội đã soạn hai bản mục lục sách (thư mục) của thư
viện tư nhân, đó là Hoàng Lê tứ khố thư mục và Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục, ghi
trong Minh Đô sử:
Hoàng Lê tứ khố thư mục nêu
76 bộ sách của các tác giả làm từ trước triều Nguyễn, chia làm 5 loại: Hiến
chương 8 bộ, Kinh sử 13 bộ, Thi văn 29 bộ, Truyện ký 28 bộ, Tạp loại 6 bộ.
Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục
ghi tên sách của các tác giả từ đầu triều Nguyễn đến gần thời điểm tác giả soạn
Minh Đô sử, gồm 153 bộ (trong đó có tên 29 bộ sử).
Người biên soạn không chia
sách theo loại mà chia theo từng địa phương: a- Thần Kinh (Huế) 20 bộ, b- Bắc
Kỳ 70 bộ, c- Trung Kỳ 42 bộ, d- Nam Kỳ 21 bộ, đ- Các nữ sĩ 6 bộ.
Như vậy, Lê Trọng Hàm trong
khi sắp xếp sách biên soạn thư mục cũng đã cải tiến thêm về khung phân loại
sách như: mở thêm Tạp loại cho Hoàng Lê tứ khố thư mục. Ông cũng áp dụng một
cách sắp xếp sách khác là sắp xếp sách theo địa dư trong Hoàng Nguyễn tứ khố
thư mục (tuy vậy thư mục này có nhược điểm là cách sắp xếp chưa nhất quán, bốn
mục xếp theo địa dư lại có một mục xếp theo giới tính).
Trên đây là một số người đã
từng làm công tác thư viện trong quá khứ hoặc có biên soạn thư mục, một khâu
công tác thư viện. Có thể nói bài viết mới đưa ra được một số ít ỏi các bậc
tiền bối của chúng ta mà bóng dáng họ chỉ xuất hiện thấp thoáng trong dòng lịch
sử văn hóa dân tộc. Sử liệu cũng không cho chúng ta biết ai là người quản lý
các thư viện đầu tiên của đất nước từ thời Lý (thế kỷ 11). Họ đã làm việc như
thế nào, kỹ thuật phương pháp công tác thư viện ra sao, vẫn còn là dấu hỏi. Chỉ
đến Lê Quý Đôn (thế kỷ 18) và sau ông là Phan Huy Chú (thế kỷ 19), chúng ta mới
được biết về lý luận và phương pháp công tác thư viện, thư mục học của họ. Song
chúng ta cũng thấy rõ một điều là những người làm công tác thư viện ở Việt Nam
từ thời cổ đã có những phẩm chất đáng quý: coi trọng sách, đọc nhiều, làm việc
và học tập chăm chỉ, tích lũy nhiều kiến thức để ứng dụng trong thực tiễn và để
tham khảo cho sáng tác. Họ đáng được tôn vinh là những học giả lớn mà như Lê
Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ đã nói “Học giả cần có ba sự nhiều: đọc nhiều,
nghị luận nhiều và trước tác nhiều”. Chính vì vậy, các học giả làm nghề thư
viện sẽ phát huy được hiệu quả cao trong công việc.
Ngày nay, nghề thư viện -
thông tin của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật trên thế giới và trong nước. Đội ngũ cán bộ thư viện - thông
tin của chúng ta lớn mạnh với hàng vạn người, hàng ngàn thạc sĩ, tiến sĩ làm
việc với những máy móc hiện đại, những công cụ tiên tiến. Chúng ta vẫn cần học
tập, tiếp thu không chỉ kho tàng sách vở quý giá của dân tộc mà còn cần học tập
và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của những cán bộ thư viện trong lịch sử dân
tộc ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Việt sử ký toàn thư. -
TP HCM.: Văn học, 2009. - 1063tr.
2. Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam / Đinh Xuân Lâm – Trương Hiến Quỳnh (chủ biên). - H.: Giáo dục, 2005.
- 467tr.
3. Trần Nghĩa. Di sản Hán Nôm
Việt Nam: Thư mục đề yếu / Trần Nghĩa, Francois Gros (ch.b). - H.: Khoa học Xã
hội, 1993. - Tập 1.
4. Trần Văn giáp. Tìm hiểu
kho sách Hán Nôm / Trần Văn Giáp. - H.: Văn hóa. – T.1: 1984. - 431tr; T2:
1990, 279tr.
____________
Tác giả: Trịnh Kim Chi
Nguyên giảng viên Đại học Văn hóa Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt
Nam số 5(25) – 2010 (tr.9-14)
Thiết kế ảnh bìa bài viết:
Hải Anh (từ trái qua phải, từ trên xuống dưới: Lê Quý Đôn, Nguyễn Thiếp, Phan
Huy Chú, Lương Như Hộc)
YÊU SỬ VIỆT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét