YEUSUVIET - Trong lịch sử Việt Nam, Họ là những công chúa “tài sắc vẹn toàn”, từng hy sinh lợi ích bản thân
vì dân tộc. Huyền trân, An Tư, Ngọc Vạn, Ngọc
Khoa sống trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, ở hoàn cảnh không giống
nhau, nhưng vì lợi ích dân tộc đã sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân.
Bài liên quan
>>> Hoàng đế Tự Đức - Vị minh quân sinh lầm thời đại
>>> Lý Thái Tông - Vị hoàng đế mang trái tim nhà Phật trên lưng ngựa
>>> Lý Thường Kiệt đại chiến Ung Châu thành - Phần 2 - Việt Sử Kiêu Hùng
>>> Lý Thái Tông - Vị hoàng đế mang trái tim nhà Phật trên lưng ngựa
>>> Lý Thường Kiệt đại chiến Ung Châu thành - Phần 2 - Việt Sử Kiêu Hùng
Huyền Trân công chúa
Huyền Trân công chúa là con gái của
vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm
1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đến Chiêm Thành chơi, được vua Chiêm là
Chế Mân tiếp đãi rất hậu.
Trước khi trở về Đại Việt, Trần
Nhân Tông hứa đem con gái là Huyền Trân gả cho Chế Mân để kết tình thông gia giữa
hai nước. Đổi lại, Chế Mân đem đất hai châu Ô và Lý (Quảng Trị và Thừa Thiên
ngày nay) làm quà sính lễ.
Cuộc hôn nhân của Huyền Trân bắt
đầu như thế. Bấy giờ, Chế Mân đã 83 tuổi. Chỉ một năm sau trở thành “con rể” của
Đại Việt, Chế Mân chết.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng
lúc bấy giờ theo tục lệ Chiêm Thành, vua chết thì hoàng hậu bị hỏa thiêu theo.
Nhà Trần không muốn Huyền Trân bị chết oan khi còn quá trẻ nên đã sai Trần Khắc
Chung vào Chiêm Thành tìm cách cứu công chúa.
Sau khi trở về Đại Việt, bà xuất
gia rồi mất vào năm 1340. Dân chúng quanh vùng thương tiếc, tôn bà là Thần Mẫu
và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn.
Ngày bà mất sau này hàng năm trở
thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế. Huyền Trân chính là
công chúa đầu tiên chấp nhận lấy người ngoại quốc để mang lại lợi ích cho hoàng
tộc.
Công chúa Ngọc Vạn
Công chúa Ngọc Vạn (có tài liệu
ghi là công nữ Ngọc Vạn), là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên -
chúa Nguyễn thứ 2 của dòng họ Nguyễn.
Năm 1620, theo lời cầu hôn của
vua Chey Chetta II, chúa Sãi thuận gả Ngọc Vạn cho ông, và bà trở thành hoàng hậu
Chân Lạp với tước hiệu Brhat Mae Samdach Brhat Bhagavati Amara Deva Thida.
Vừa đẹp người, lại đẹp nết, bà được
vua Chey Chettha II rất yêu quý. Nhờ vậy, nhà vua đã cho một số người Việt đi
theo bà giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Chân Lạp, cũng như cho
nhiều người Việt lập hãng xưởng và buôn bán ở gần kinh đô.
Lợi dụng mối quan hệ này, năm
1623, chúa Sãi cử một sứ bộ, đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm, tới Oudong để tỏ
tình thân hữu và bảo đảm sự ủng hộ của triều đình Đàng Trong. Trong thư, chúa
Nguyễn cũng đã yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập một đồn thuế ở Prei Kor (tức
vùng Sài Gòn) và lập một dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa Vũng Tàu ngày nay -
đây là dinh điền chính thức đầu tiên trên đất Chân Lạp).
Nhờ sự vận động của Ngọc Vạn, cả
hai việc trên đều được vua Chey Chetta II chấp thuận.
Nhận xét về công chúa Ngọc Vạn,
tiến sĩ Trần Thuận viết: “Cuộc hôn nhân này mặc dầu không được sử nhà Nguyễn
ghi chép vì một lý do nào đó. Song, xét đến cùng, đây là cuộc hôn nhân mang màu
sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam...
Lịch sử dân tộc Việt Nam từng có
những phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu... và cũng từng có những
người phụ nữ lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, Ngọc
Vạn, Ngọc Khoa... Chính họ là những con người làm nên lịch sử. Đáng kính
thay!”.
An Tư công chúa
Đến nay, năm sinh, mất và kể cả
cuộc đời của công chúa An Tư vẫn là điều bí ẩn. Theo Việt sử tiêu tán, bà là
con gái út của vua Trần Thái Tông (1218-1277), em gái của Trần Thánh Tông và là
cô ruột của Trần Nhân Tông.
Năm 1285, quân Nguyên, dưới sự chỉ
huy của Trấn Nam vương Thoát Hoan, tiến đánh Đại Việt lần thứ hai. Trước sự tấn
công dồn dập như vũ bão của giặc, Thượng hoàng Trần Thái Tông đã cử người đem
thư giảng hòa, nhằm mục đích kéo dài thời gian để củng cố lực lượng. Tuy nhiên,
Toa Đô cậy thế mạnh không chấp nhận hòa hoãn, quân Nguyên đổ bộ đánh quân ta
trên các mặt trận.
Lúc này, công chúa An Tư nhận trọng
trách kìm hãm ý chí tiến công của địch vào thành Thăng Long để quân dân ta có
thời gian củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu.
Việt sử tiêu tán của Ngô Thì Sĩ
có ghi: "Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua
sông. Quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được. Ngày đã về chiều,
quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa An Tư Công chúa cho chúng,
để thư nạn cho nước".
Đến nay, cuộc đời của công chúa
An Tư sau khi được “gả” cho Thoát Hoan vẫn là điều bí ẩn. Tuy nhiên, không thể
phủ nhận sự hy sinh thầm lặng của công chúa đã góp phần giúp nhà Trần đẩy lui
quân giặc.
Giáo sư Phạm Đức Dương từng viết:
“Nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì ba lần
chiến thắng quân Nguyên. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng
góp, sự hy sinh thầm lặng của những phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Người
con gái 'lá ngọc cành vàng' ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại”.
Công chúa Ngọc Khoa
Công chúa Ngọc Khoa tên đầy đủ
Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, là con gái thứ 3 của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Bà là
em gái công chúa Ngọc Vạn.
Cũng giống như chị mình, vì lợi
ích của dân tộc, của dòng họ, bà đã chấp nhận “làm dâu xứ người”.
Theo sách Nguyễn Phúc tộc thế phả,
năm Tân Mùi (1631), bà (Ngọc Khoa) được đức Hy Tông (Sãi Vương) gả cho vua
Chiêm Thành là Po Rômê.
Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình
giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lại hòng đối
phó chúa Trịnh, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội mở rộng lãnh thổ về phía Nam.
Nguyễn Thị Hằng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét