Từ thời tự chủ, các triều đại phong kiến Việt
Nam đều ban hành luật pháp để trị nước. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại 2
bộ Quốc triều hình luật thời Hậu Lê và Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn.
Bài liên quan
>>> Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
>>> Quốc triều chính biên toát yếu
>>> Lam Sơn thực lục - Công nghiệp Lê Thái Tổ đuổi giặc phương Bắc gian khổ, đời sau phải cố giữ lấy
>>> Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
>>> Quốc triều chính biên toát yếu
>>> Lam Sơn thực lục - Công nghiệp Lê Thái Tổ đuổi giặc phương Bắc gian khổ, đời sau phải cố giữ lấy
Luật Hồng Đức - bộ luật tiến bộ
Bộ Quốc triều hình luật, hay còn
gọi là Lê Triều hình luật, hoặc Luật Hồng Đức, do được ban hành dưới niên hiệu
Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông, được đánh giá là bộ luật hoàn thiện nhất trong
lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam.
Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung
tiến bộ, nhân văn sâu sắc. Theo các nhà nghiên cứu, Bộ luật Hồng Đức đã trải
qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tông mới
hoàn thành.
Công lao của triều vua Lê Thánh
Tông là đã san định các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước
xây dựng bộ luật ngày ấy.
Đến thời Lê Trung Hưng
(1533-1789) sau này vẫn lấy Bộ luật Hồng Đức làm quy tắc mẫu mực, chỉ sửa đổi,
bổ sung thêm một số điều khoản phụ cho thích hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời.
Bộ luật Hồng Đức sau đó đã được
các triều vua thời Lê Trung Hưng bổ sung thêm, có 13 chương, 722 điều.
Hiện không có tài liệu nào viết về
việc biên soạn bộ luật này như thế nào, cũng như triều đình ban hành luật ra
sao, tuy nhiên theo tác giả Phan Huy Chú viết trong bộ Lịch triều hiến chương
loại chí, phần Hình luật chí, thì có lẽ bộ luật được ban hành những năm cuối
trong niên hiệu Hồng Đức. Trong lời đề tựa của vua Gia Long triều Nguyễn cho bộ
Hoàng Việt luật lệ, nhà vua cũng đánh giá rất cao bộ luật cổ này.
Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư,
chỉ có chép một sự kiện vào năm Hồng Đức thứ 5 (1474), vua Lê Thánh Tông sắc dụ
quan lại phủ, châu, huyện, các xứ thừa tuyên trong cả nước rằng:
"Đặt luật để trừ kẻ gian,
sao dung được bọn coi thường pháp luật; đặt quan để dẹp mối kiện, lại gây ra
cái tệ bán quan mua tước. Nếu không cấm triệt cho nghiêm thì sao chấm dứt được
nạn tranh đoạt rắc rố"i.
"Từ nay về sau, việc thừa nhận
ruộng đất nếu đã quá hạn rồi mà làm đơn gian trá, ghi năm tháng còn trong hạn
và chưa được hầu xét vào đơn, cùng là trước đã xét là gian trá, tuy có lời
cung, cũng đều cho là phế bỏ cả, không được xét hỏi nữa. Quan phụ trách dám nhận
đơn và xét hỏi, Hiến ty hặc tâu, thì xử tội lưu".
Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức
được các nhà nghiên cứu luật pháp đánh giá cao là việc đề cao địa vị của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bộ luật quy định người vợ có quyền quản lý tài
sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới.
Luật cũng thể hiện chính sách trọng
nông, với những hình phạt cho các tội phá hoại đê điều, chặt phá cây cối và lúa
má của người khác, tự tiện giết trâu ngựa…, cũng như tính chất nhân đạo như áp
dụng các mức án nhẹ hơn với người già, tàn tật, người còn trẻ, người tự thú...
Luật Gia Long: Giữ được các giá
trị nhân văn
Sang triều nhà Nguyễn, sau khi
vua Gia Long lên ngôi 14 năm, bộ luật lớn của triều đình mới được hoàn thiện và
ban hành. Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhất kỷ chép: Tháng 8 năm Gia Long
thứ (1815) Ban Quốc triều luật lệ cho trong ngoài.
Theo sử sách nhà Nguyễn, chủ trì
bộ luật này là danh tướng Nguyễn Văn Thành. Năm 1810, đang giữ chức Tổng trấn Bắc
Thành, ông được triệu về kinh, giao cử chức Tổng tài cùng với Vũ Trinh và Trần
Hựu soạn bộ Quốc triều luật lệ, hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ hoặc luật Gia
Long.
Việc soạn Hoàng Việt luật lệ bắt
đầu từ tháng 2/1811 và đến tháng 8/1812 thì hoàn tất. Bộ luật có hai phần, có tất
cả 398 điều.
Trước khi ban hành, Nguyễn Văn
Thành dâng sớ tâu lên vua Gia Long, trong sớ ông trình bày nguyên tắc biên soạn
luật: "...đặt lại quy tắc khoan hồng và thưởng phạt. Khi xem đến luật triều
Thanh, đức Thánh thượng nhận thấy đó là bộ luật gồm đủ các sắc luật của các triều
đại trước, nên ban sắc chỉ dạy các quan đem ra bàn bạc, xem xét cùng hạ thần
ngõ hầu chọn lấy những gì khả dĩ soạn thành bộ luật riêng để dùng trong nước..."
"Sách đã dạy: Trừng phạt để
về sau không còn phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải
dùng đến tội hình nữa. Điều đó há chẳng phải là điều mà Đức Thánh thượng hằng
mong muốn hay sao?".
Các nhà nghiên cứu lịch sử luật
pháp vẫn đang có nhiều ý kiến khác nhau về bộ luật này. Có ý kiến cho rằng bộ
luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh, nhưng ý kiến khác lại cho rằng
bộ luật này đã có những điều chỉnh mới củng cố các phong tục, tập quán cổ truyền
tốt đẹp của dân tộc cùng với nhiều định chế rất tiến bộ
Trong Đại Nam thực lục có chép
chi tiết nội dung tờ chiếu ban hành bộ luật của vua Gia Long, viết rằng: “Việc
hình là để ngăn cấm giữ dân, có sáng rõ thì kẻ ngu ngoan mới biết đường đi lối
tránh. Pháp luật là của chung của thiên hạ, có nhất định thì quan lại mới biết
có chỗ nắm theo. Quốc triều ta từ trước xử đoán việc hình đã sẵn phép thường…”.
Nguyên tắc biên soạn bộ luật cũng
được vua Gia Long nói rõ trong chiếu: “Trong khi xử đoán, mệnh người rất là
quan hệ, trẫm rất để ý. Trừ cái xấu, bày cái mới cần phải có pháp nhất định. Vậy
nên đặc biệt sai đình thần tham khảo điển cũ của bản triều, luật lệ đời Hồng Đức,
điều luật nước Đại Thanh, cùng những điều mới định gần đây, châm chước những điều
thích hợp mà biên tập thành sách, trẫm thân hành xét định, phàm 22 quyển”.
Tờ chiếu cũng lưu ý quan lại và
dân chúng về việc áp dụng bộ luật: “Lại sai các đại thần Tổng tài và khảo hiệu
để khắc in, ban hành cho thiên hạ để làm lệnh điển đời đời. Từ nay xét xử ngục
tụng, hết thảy y theo luật điều mới ban, không được trái vượt. Quan lại trong
ngoài đều nên lưu tâm nghiên cứu. Dẫn dụng mà xử đoán, cần phải rõ ràng khiến
cho hình được công bằng, không ai bị oan lạm, để báo đáp tấm lòng xử phạt
thương xót việc hình của trẫm".
"Lại thấy điều lệ mới thi
hành, nha môn trong ngoài chưa có thể xem kỹ hết mọi điều, chuẩn cho từ năm nay
đến cuối tháng 12 năm Đinh Sửu (tức là 2 năm sau), quan xét hình có sơ suất nhầm
lẫn thì không phải là có ý khép mở tội người thì về tội roi và trượng đều miễn
nghị, về tội đồ trở lên thì chiếu lệ thất xuất thất nhập (tức là nhầm lẫn mà xử
nhẹ tội bớt hay nặng tội thêm cho người ta) giảm thêm một bậc; từ năm Mậu Dần
(tức 3 năm sau) trở đi thì xử trị theo luật”.
Theo các chuyên gia, bộ luật Gia
Long đã có nhiều điểm tích cực trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người
với con người trong xã hội, bảo vệ quyền lợi của người già, người cô quả, tàn tật,
trẻ em và phụ nữ; bảo vệ quyền lợi nhất định của những người phạm tội và bảo vệ
dân thường …
Lê Tiên Long - Nguồn Zing
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét