YEUSUVIET - Nếu mỗi nền văn hóa lâu đời đều gắn
liền với những bảo vật linh thiêng, tựa như Nhật Bản có “Tam Chủng Thần Khí”,
Trung Hoa có “Trấn Quốc Chi Bảo”, hay Triều Tiên có “Thiên Phù Tam Ấn”, thì Việt
Nam cũng tự hào nhắc đến bốn báu vật thần thánh – “An Nam Tứ Đại Khí”.
Bài liên quan
>>> Đại Việt những năm tháng điêu tàn - Cuối đời Nhà Lý
>>> Ngô Quyền khôi phục quốc thống, giành lại trời Nam
>>> Nội chiến Việt Nam - Trịnh - Nguyễn phân tranh và mưu đồ dòng họ.
>>> Đại Việt những năm tháng điêu tàn - Cuối đời Nhà Lý
>>> Ngô Quyền khôi phục quốc thống, giành lại trời Nam
>>> Nội chiến Việt Nam - Trịnh - Nguyễn phân tranh và mưu đồ dòng họ.
An Nam Tứ Đại Khí còn được gọi là
Nam Thiên Tứ Bảo Khí, hay Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí, gồm có: tượng Phật chùa Quỳnh
Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Ngân Thiên (có tài liệu nói là chuông Quy Điền), và
vạc Phổ Minh. Đây được coi là 4 kỳ quan, 4 quốc bảo, 4 công trình nghệ thuật dưới
thời Lý, Trần.
Vậy thì, vì sao chúng được tôn
vinh là “đại khí”, “bảo khí”, hay “thần khí” – nghĩa là những báu vật có thể chấn
hưng cả một quốc gia, quyết định đến sự phồn vinh hay suy vong của cả một dân tộc?
Chắc hẳn câu trả lời sẽ không chỉ giới hạn ở mức độ bề thế của quy mô, mức độ
tinh xảo của nghệ thuật, hay mức độ vĩ đại của tinh hoa và văn hoá. Mà sâu xa
hơn, nó còn ẩn chứa nhiều bí mật của cả 4000 năm lịch sử.
Và nếu nhìn lại những “bộ tứ” của
Đại Việt, ta có thể thấy tất cả đều là những bậc thánh thần. Ví như An Nam Tứ Bất
Tử thờ 4 vị thánh linh thiêng; Hoa Lư Tứ Trấn thờ bốn vị thần trấn giữ các hướng
đông, tây, nam, bắc của vùng đất cố đô; hay Thăng Long Tứ Trấn là 4 ngôi đền
thiêng thờ các vị đại thần bảo vệ cho kinh thành.
Phải chăng An Nam Tứ Đại Khí cũng
cần mang trong mình những yếu tố linh thiêng và cao quý nhường ấy, mới có thể
được coi là vật báu chấn hưng dân tộc Việt?
Nhưng có lật giở cả Đại Việt sử
ký toàn thư cũng không tìm được lời giải thích cho sự ra đời của tứ đại khí
này. Có chăng, thì những cái tên như tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, hay chùa Quỳnh
Lâm chỉ lác đác xuất hiện đôi lần như một công trình nghệ thuật hay một di tích
bị tàn phá bởi chiến tranh. Chính sử dường như vẫn luôn tránh né những câu chuyện
mang yếu tố thần thoại, trong khi huyền sử lại chỉ được chắp nối qua những lưu
truyền và ghi chép dân gian.
Bởi vậy, để tìm lời giải thích
cho bốn báu vật nói trên, chúng ta hãy lần theo những truyền thuyết xưa còn để
lại. Cho dù nó mang sắc màu huyền thoại, cho dù nó có những yếu tố tâm linh khó
giải thích bằng lời, thì dẫu sao đó vẫn là một phần của lịch sử mà dân gian vẫn
gìn giữ cho chúng ta đến ngày hôm nay.
Câu chuyện bắt đầu từ thời vua Thần
Nông khoảng 5000 năm trước đây. Sau khi thống nhất sơn hà, Thần Nông làm phép
thu linh khí Hoa Hạ xuống núi Thái Sơn, khiến đồng đen trong lòng núi Thái Sơn
kết tinh thành trâu vàng của Trung Hoa. Khi thiên hạ thanh bình hoặc khi có
chúa thánh ra đời, thì vào những đêm trăng sáng, trâu vàng lại ra khỏi núi, bay
lơ lửng trên không trung, toả sáng cả một vùng.
Núi Thái Sơn vốn là nơi có mỏ đồng
đen quý hiếm. Các thầy phong thuỷ Trung Hoa cho rằng đồng đen là mẹ của vàng, bởi
vậy các đời vua đều thu thập đồng đen ở Thái Sơn đem cất vào kho, rồi làm phép
cho trâu vàng không được rời khỏi núi.
Thời nhà Đường, vua Đường Ý Tông
sai Cao Biền sang làm tiết độ sứ tại nước ta. Cao Biền sớm nhận thấy linh khí
phương nam cường thịnh nên đã trấn yểm các thế đất, thu tất cả tinh hoa linh
khí của Đại Việt vào bụng 36 con trâu vàng rồi đem về giam dưới núi Thái Sơn
cùng với con trâu vàng của Hoa Hạ.
Đến đời vua Tống Thái Tông, sau
khi bại trận trước quân ta ở Chi Lăng và Bạch Đằng, vua Tống sai đào trâu mang
về yểm ở hoàng cung, trong đó có cả con trâu vàng Trung Hoa và 36 con trâu vàng
giữ linh khí Đại Việt.
Sau đó, khi hai vị thánh tăng của
Đại Việt là Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh vân du đến Trung thổ, các vị đã giúp
nhà Tống trừ tà tại hoàng cung nên được vua Tống ban thưởng đồng đen. Hai vị
thánh tăng đã làm phép thu hết cả kho đồng đen, đồng thời lấy lại 36 con trâu
vàng có chứa tinh anh của dân tộc Việt. Từ đó, linh khí Đại Việt lại rực sáng cả
trời nam.
Sau khi trở về, Nguyễn Minh Không
và Từ Đạo Hạnh đã dùng số đồng đen thu được đúc thành bốn bảo khí giữ nước, được
gọi là Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí.
Bởi vì đồng đen là tinh hoa trên
núi Thái Sơn, mang trong mình linh khí của trời đất, vậy nên tứ bảo khí của Đại
Việt, một cách tự nhiên, đã mang trong mình một sức mạnh thần kỳ.
Bảo khí thứ nhất: Đỉnh tháp Báo Thiên
Chùa Báo Thiên được xây dựng từ
thời vua Lý Thánh Tông. Vào niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình (1056), vua ngự thuyền
ra hồ Tây thưởng ngoạn. Bỗng đâu xuất hiện một người lạ trách mắng vua rằng:
“Nhà ngươi làm chúa trời Nam, sao không lo tu đức, sửa sang chính sự mà lại
rong chơi? Như vậy vua làm gương cho kẻ xấu, cho bọn tham quan ô lại, cường hào
ác bá hà hiếp dân lành. Ta là thần giữ việc mưa gió vùng này. Nay thấy dân khổ
nên báo cho vua hay”, nói xong bèn biến mất.
Vua Lý Thánh Tông vội trở về
kinh, chấn chỉnh lại triều chính, đồng thời sai người xây chùa để tạ ơn Trời Phật,
vì vậy chùa mới có tên là “Báo Thiên”. Sang năm sau, nhà vua lại cho dựng một
toà tháp cao 20 trượng (40m) gồm 12 tầng.
Đến đây, hai vị thánh tăng lại
dùng đồng đen để đúc nên đỉnh tháp (tầng thứ 13). Cũng kể từ đó những vì tinh
tú trên thiên hà đều hướng về phương nam, đêm đêm toả hào quang chiếu sáng đất
Thăng Long.
Bảo khí thứ hai: Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm
Bức tượng tại chùa Quỳnh Lâm
không chỉ được chế tạo từ đồng đen, mà bên trong còn lưu giữ 18 viên xá lợi của
các vị bồ tát Đại Việt, lại thêm 360 viên đá linh khí từ các đền thờ chư thánh
và anh hùng của Đại Việt. Bởi chứa tinh anh của dân tộc, nên đây là bức tượng
linh thiêng vào bậc nhất cõi trời Nam. Có câu nói rằng, chỉ cần pho tượng vẫn
còn thì Trung Nguyên mãi mãi không thể xâm phạm bờ cõi An Nam.
Bảo khí thứ ba: Vạc Phổ Minh
Vạc đặt trong chùa Phổ Minh ở Nam
Định. Theo mô tả, vạc nặng ba vạn cân, bên ngoài có hình rồng uốn lượn và hình
chim âu đang bay, trên thành có 100 lỗ hình quả trứng tượng trưng cho con Rồng
cháu Tiên. Trong mỗi lỗ lại đặt một tượng rồng vàng để tích tụ linh khí của
dòng dõi Bách Việt. Bệ vạc khắc tên tất cả các vị vua của dân tộc, từ Kinh
Dương Vương, Lạc Long Quân, cho đến vua Lý Thánh Tông.
Tục truyền rằng, ngay sau khi vạc
được an trí, trên không có tiếng nhạc vang lừng, rồi hàng vạn con hạc từ đâu về
bay lượn. Hào quang từ trong vạc phát ra sáng chói một vùng. Ngài Minh Không thấy
vậy mới nói rằng: “Không ngờ linh khí tụ nhanh đến vậy. Sau đây trên trăm năm sẽ
có giặc phương Bắc, thiên hạ không ai địch nổi. Nhưng nơi đây một vị đại thánh
sẽ giáng trần phá tan giặc đó”.
Quả nhiên, mảnh đất ấy là nơi
phát tích ra nhà Trần sau này. Còn người anh hùng đó chính là Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông.
Bảo khí thứ tư: Chuông Ngân Thiên
Khi nhắc đến thần khí thứ tư, có
ý kiến cho rằng đó là chuông Quy Điền ở chùa Một Cột. Nhưng chuông Quy Điền
không phải do hai vị thánh tăng đúc nên, hơn nữa cũng không thể hiện được ý
nghĩa linh thiêng như ba thần khí còn lại. Bởi vậy, giả thiết này e rằng không
hợp lý.
Nói về chuông Ngân Thiên, sở dĩ
có tên gọi như vậy là vì tiếng chuông vang rền lên tận trời xanh.
Chuông Ngân Thiên gắn liền với sự
tích con trâu vàng dưới lòng Hồ Tây. Chuyện kể rằng, sau khi đúc, chuông được
đưa lên đỉnh tháp Báo Thiên. Lúc ấy thần linh đều tụ về nơi này, hai vị thánh
tăng mới bắt đầu đánh chuông. Tiếng chuông vang rền, ngân tới tận Trung Hoa. Vì
đồng đen là mẹ của vàng, con trâu vàng Hoa Hạ ngỡ là tiếng mẹ gọi bèn vùng lên
chạy về đất Thăng Long, rồi sau được trấn yểm dưới lòng Hồ Tây. Gần nơi trâu trầm
xuống được dựng đền thờ, gọi là đền Kim Ngưu, nghĩa là đền Trâu Vàng. Người dân
Thăng Long vẫn đồn đại rằng, những đêm trời đẹp trâu vàng lại nổi lên mặt Tây Hồ,
có lẽ là vì vậy.
Lại nói về quả chuông Ngân Thiên,
hai vị thánh tăng cho rằng thần linh Đại Việt tuy nhiều nhưng quỷ ma cũng không
thiếu. Trải qua các cuộc chiến tranh, rất nhiều hồn phách của binh sĩ Trung Hoa
bỏ mình trên đất Việt vẫn thường quấy nhiễu nhân gian. Bởi vậy, hai vị đã chiêu
hồn họ để làm chày giải oan. Với những binh hồn không thể siêu thoát, hai vị lại
thu hồn phách của họ vào chuông Ngân Thiên rồi thả xuống sông Lục Đầu. Nơi quả
chuông rơi xuống còn được gọi là “đoạ chung lại”, tức vũng chuông rơi.
***
Đến đây ta có thể thấy những yếu
tố linh thiêng làm nên Tứ Đại Khí của mảnh đất An Nam. Nó thần thánh, bởi nó được
tạo nên từ hai vị thánh tăng bất tử của Đại Việt – Nguyễn Minh Không và Từ Đạo
Hạnh. Nó thần thánh, bởi nó hội tụ tất cả linh khí và tinh hoa của 4000 năm lịch
sử dân tộc. Và nó thần thánh, bởi đó là những pháp khí gắn liền với Phật và Thần.
Trải qua bao phong ba tuế nguyệt,
An Nam Tứ Đại Khí đã chứng kiến những trang sử hào hùng của hai thời Lý, Trần.
Người ta nói Lý-Trần là hai thời đại huy hoàng của Đại Việt bởi đây là những
triều đại tôn vinh Phật Pháp, coi Phật giáo là quốc pháp cai trị đất nước, và
ngay cả nhiều vị vua cũng xuất gia tu hành. Đây cũng là thời kỳ mà những bậc
anh tài đã xuất hiện làm rạng rỡ non sông, như Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn, v.v. Có lẽ cũng còn một lý do để tin rằng, trang sử huy hoàng
đó có đóng góp không nhỏ của 4 bảo khí đất An Nam…
Nguồn: Đại Kỷ Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét